Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanh

Tính cạnh tranh của một doanh nghiệp tùy thuộc vào lòng tin của khách hàng với sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấp bởi doanh nghiệp đó. Do vậy, để khẳng định tính cạnh tranh của mình, doanh nghiệp phải: (1) Ý thức được giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanh và (2) Phải xây dựng được khả năng để làm tốt cái gì mình hứa. 


Tính cạnh tranh được đo lường bởi giá trị thặng dư của sản phẩm. Nói một cách khác, mức độ cạnh tranh là mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh là khả năng làm giàu được trong kinh tế thị trường. Một gánh bún riêu hay một quán cà phê vỉa hè có khách và làm ăn có lãi là có tính cạnh tranh cao hơn một nhà hàng cao cấp ít khách làm ăn không có lãi. Một thương hiệu có uy tín có thể bán sản phẩm giá cao hơn sản phẩm cùng loại của một hãng khác chưa có uy tín bằng. Như vậy tính cạnh tranh, hay nói một cách khác là khả năng sinh lợi trong kinh doanh, không nhất thiết phải tùy thuộc vào mặt hàng nào, công nghệ nào hay số vốn mà thực tế là trên độ tin cậy của người tiêu thụ mặt hàng hoặc dịch vụ đó.
Để ý thức được giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanh, doanh nhân cần có tư duy dịch vụ. Nghĩa là phải luôn đặt mình vào vị trí của người tiêu thụ và tự đánh giá sản phẩm của mình một cách khách quan rên mặt giá trị tiện và lợi.
Nhiều mặt hàng của chúng ta còn thiếu tính cạnh tranh vì mẫu mã không bắt mắt, không tiện sử dụng, từ đó không tạo được lòng tin về nội dung (chất lượng) của mặt hàng đó. Người tiêu dùng nhiều lúc phải loay hoay không biết làm sao để mở một hộp dầu cù là, một gói bánh, một chai nước mắm hay ngay cả một bao khăn lạnh chúng ta dùng hàng ngày. Một gói bánh đậu phụng sản xuất tại Việt Nam với mẫu mã chuẩn bán được giá gấp đôi ở siêu thị Mỹ so với cùng bánh đậu phụng dó với mẫu mã sơ sài bán trong một siêu thị Việt Nam cũng tại Mỹ. Muốn làm tốt hơn cái bánh đậu phụng để bán được giá cao hơn là chuyện đơn giản và không tốn kém bao nhiêu.
Để có tính cạnh tranh cao, người tiêu thụ phải được thuyết phục để tin rằng người sản xuất luôn luôn chu đáo nghĩ đến nhu cầu của họ và đã thỏa mãn nhu cầu của họ xứng đáng với cái giá họ đã trả.
Để xây dựng được khả năng làm được cái gì mình đã hứa, doanh nhân cần chủ động những điều kiện nội tại và biết khai thác triệt để được những điều kiện đó. Doanh nghiệp chỉ cần làm hay trong khả năng sẵn có và có thể có của mình để chủ động được giá thành và giảm rủi ro sản xuất. Đó là tận dụng lợi thế tương đối của mình. Nhiều doanh nghiệp biết tận dụng phế liệu sẵn có để kinh doanh sản xuất có lãi. Rất nhiều doanh nhân Hồng Kông trong những năm 1950 và 1960 là những người ít học, ít vốn nhưng họ đã biết tận dụng cái gì họ có để sản xuất những cái đơn giản nhất mà người khác cần. Họ sản xuất tóc giả cho phụ nữ và đã xuất khẩu gần một tỉ USD tóc giả một năm cho toàn thế giới. Đến khi tóc giả không còn là sản phẩm thời trang nữa thì họ chuyển qua sản xuất hoa giả và đồ chơi trẻ em. Hồng Kong làm giàu từ đó và tập trung vào phát triển dịch vụ thương mại, xuất nhập khẩu và ngan hàng, nơi mà họ có lợi thế tương đối nhờ vào mạng lưới Hoa Kiều khắp thế giới. Họ không nhờ vào công nghệ cao hay sản xuất những hàng phức tạp đòi hỏi vốn đầu tư, kỹ thuật cao, nhưng họ lại có được uy tín sản xuất hàng nào ra hàng đó. Vậy là có ưu thế về cạnh tranh.
Tương tự như kinh tế doanh nghiệp, tính cạnh tranh của một nền kinh tế quốc gia không tùy thuộc vào số khoa học gia hay lượng đầu tư vào ngành nghề công nghệ cao, mà tùy thuộc vào việc cung cấp được cái gì người khác cần trong khả năng của mình có thể chủ động được. Thụy Sĩ là một trong những nước có thu nhập đầu người cao nhất thế giới chỉ nhờ vào khả năng kinh doanh chữ tín của họ trong dịch vụ ngân hàng. Ai bỏ tiền vào ngân hàng Thụy Sĩ cũng tin rằng tiền của mình sẽ không mất và được bảo mật tuyệt đối nên họ chấp nhận mức lãi suất thấp nhất thế giới, tạo cho Thụy Sĩ một thế cạnh tranh tuyệt đối trong ngành này.
Tài nguyên thiên nhiên cũng không phải là một điều kiện cần. Trong số "top ten" những nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất, ngoài Mỹ và Úc, còn lại là những nước nhỏ ở Bắc Âu và Đài Loan, Singapore, những quốc gia và lãnh thổ không nhiều tài nguyên thiên nhiên. Những nơi này ngoài điều kiện có được một môi trường kinh doanh thông thoáng không gây trở ngại cho doanh nghiệp, còn chia sẻ một đặc điểm là tính chu đáo trong văn hóa kinh doanh của họ. Trong kinh doanh tính chu đáo và trung thực tạo được sự tin cẩn. Và đó là một lợi thế cạnh tranh được khẳng định.



SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo Saga)

7 bí quyết thành công của Steve Jobs

Dũng cảm bỏ học để "đi theo tiếng gọi của trái tim" là nguyên tắc đầu tiên được tác giả Carmine Gallo liệt kê trong cuốn sách "The Innovation Secrets of Steve Jobs" (Bí quyết sáng tạo của Steve Jobs). 

Năm 1972, Steve Jobs, hiện là Tổng giám đốc Apple, rời gia đình ở Thung lũng Silicon (Mỹ) để theo học ngành khoa học nhân văn tại trường Reed College nhưng rồi bỏ học chỉ sau đó một kỳ. Như nhiều thanh thiếu niên khác, chàng trai 17 tuổi khi ấy thiếu sự định hướng vào đời. "Tôi không có ý niệm muốn làm gì trong tương lai và cũng không hiểu trường học sẽ giúp tôi xác định lối đi như thế nào", sau này Jobs nói. "Ở đó, tôi tiêu hết số tiền mà bố mẹ đã dành dụm cả đời. Vì thế tôi quyết định nghỉ học với niềm tin rằng rồi mọi chuyện sẽ ổn cả thôi".
Không có gì ngạc nhiên khi phụ huynh trên toàn thế giới sẽ lắc đầu trước nguyên tắc đầu tiên này bởi để có thể đổi mới thế giới như CEO của Apple, con cái họ sẽ còn cần tới 6 tiêu chí rất khó thực hiện khác.
Để thực hiện điều đó, người ta phải có đủ kinh nghiệm và kiến thức rộng về cuộc sống. Gallo trích dẫn một nghiên cứu của Đại học Harvard (Mỹ) rằng sự sáng tạo đòi hỏi khả năng huy động nhiều kinh nghiệm mới có thể đạt được điều gì đó hoàn toàn mới mẻ. Chẳng hạn, Jobs từng tham gia lớp viết chữ đẹp ở trường Reed, nhờ vậy sau này ông mới kết nối kinh nghiệm đó trong thiết kế sản phẩm.Gallo mô tả Jobs như người anh hùng với khả năng mang đến "không phải những gì người dùng muốn, mà là những gì họ sẽ muốn". Bí quyết chủ đạo để tạo nên một kiệt tác là nghĩ khác để làm nên sự khác biệt và luôn đặt ra các câu hỏi nhằm thay đổi hiện trạng (Put a dent in the universe).
Nguyên tắc thứ ba về khả năng vận động bộ não (Kick-start your brain) có liên quan đến câu nói của Jobs: "Một phần khiến Macintosh trở nên tuyệt vời là những người làm ra nó từng là nhạc sĩ, nhà thơ, nghệ sĩ, nhà động vật học và cả nhà sử học nhưng giờ lại trở thành những chuyên gia máy tính hàng đầu thế giới".
Những bí quyết còn lại nhấn mạnh sự kiên định. "Đổi mới vẫn đang nằm cô đơn ở đâu đó bởi rất ít người dám dũng cảm vứt bỏ những ý tưởng mới nhưng lại tự tin bảo vệ những gì họ đã chọn trước mọi chỉ trích. Do đó, rất ít người có khả năng cách tân ở mức độ cao như Steve Jobs", Gallo nhận định. Nói cách khác, cách tốt nhất cho thanh niên là tiếp tục theo học ở trường.
7 nguyên tắc đổi mới của Steve Jobs:
1. Làm những gì bạn đam mê (Do what You Love).
2. Tạo nên sự khác biệt (Put a Dent in the Universe).
3. Vận động bộ não (Kick-Start Your Brain).
4. Bán ước mơ, không phải bán sản phẩm (Sell Dreams, Not Products).
5. Nói "Không" với 1.000 thứ (Say No to 1,000 Things).
6. Tạo ra những trải nghiệm tuyệt vời (Create Insanely Great Experiences).
7. Làm chủ thông điệp (Master the Message)



SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo Vnexpress)

Vì sao nhà phát minh không thể trở thành tỉ phú?

Không phải lúc nào những phát minh đặc biệt hữu ích cho đời sống cũng mang lại tiền bạc và danh vọng cho chủ nhân! 

Chúng ta hãy giả dụ bạn là người đàn ông phát minh ra karaoke nhưng bạn quá bận rộn trong việc ca hát ở câu lạc bộ đến nỗi không thể nghĩ về tiềm năng kiếm tiền nhờ phát minh của mình. Phát minh đó là một chiếc máy nhạc gây chấn động toàn cầu và được đánh giá là mất 110 tỉ yên tiền bản quyền.
Hoặc ví rằng bạn phát minh ra phương pháp tiêm toxin vào cơ mặt để giảm vết nhăn nhưng một vị luật sư bảo bạn rằng phát minh đó không được cấp bằng sáng chế. Bạn có lẽ chỉ có thể nhìn mọi người kiếm hàng tỉ đô nhờ  phép trị liệu trẻ hóa của mình.
Như vậy, không một ai trong số họ sáng chế cho chúng ta khoai tây chip, kẹo cao su, máy khoan dầu, vệ tinh truyền thông, máy rút tiền tự động hay World Wide Web băn khoăn về việc nhận giấy phép độc quyền, cái mà giúp họ thu lời được từ các phát minh của mình.
Dưới đây là cái nhìn cận cảnh về một vài phát minh xuất sắc, đã và đang phục vụ cho hàng triệu người trên khắp thế giới, nhưng không thể đưa tên tuổi người sáng chế vào lịch sử hay trở thành tỉ phú!
Máy rút tiền tự động ATM
Hãy tưởng tượng việc phải chờ đợi ngân hàng mở cửa trước khi bạn có thể rút tiền từ tài khoản của mình. Nhưng đó là tình huống thúc đẩy John Shepherd-Barron phát minh ra máy rút tiền tự động ATM.
Shepherd-Barron là cựu giám đốc ở vương quốc Anh đã hình dung ra một chiếc máy giúp cho khách hàng có thể rút tiền ngoài giờ hành chính của ngân hàng. Ông đã nêu ý tưởng của mình với một viên chức tại ngân hàng Barclays (BCS) là James Goodfellow, và người đó đã đưa một vài máy ATM vào hoạt động trong năm 1967. Họ đã thành công và ngày nay có khoảng 2 triệu máy rút tiền trên toàn cầu.
Nhà phát minh xứ Scotland - James Goodfellow cũng được cấp chứng chỉ độc quyền sáng chế thiết bị ATM. Thế nhưng Shepherd-Barron lại chưa bao giờ có quyền lợi hợp pháp về sáng chế của mình, và ông đã mất trong tháng 5 năm 2010 ở tuổi 84.
Khoai tây lát mỏng
Người đàn ông làm mẻ bánh khoai tây lát mỏng đầu tiên không thu được lợi nhuận từ phát minh của mình.
Tên của ông là George Crum, ông là một bếp trưởng tại nhà hàng Moon''s Lake House ở thành phố Saratoga Springs, New York. Vào mùa hè năm 1853, Crum gặp một vị khách hàng đặc biệt khó tính khi người này trả lại món khoai tây chiên cho nhà bếp và phàn nàn về việc những miếng khoai tây quá dày. Sau đó Crum cắt những miếng khoai tây đó ra thành các mảnh nhỏ và chiên chúng lên. Kết quả là những miếng khoai tây quá mỏng đến nỗi phải dùng tay để ăn.
Vị khách hàng khó tính đó thấy hài lòng và từ đó món khoai tây lát mỏng thành một món phổ biến được thêm vào trong thực đơn nhà hàng. Một thời gian dài, Crum đóng hộp những lát khoai tây mỏng và bán riêng lẻ nhờ đó ông kiếm đủ số tiền để tự mở một nhà hàng.
Crum mang trong mình hai dòng máu Mĩ Phi và Mĩ bản địa, ông thu nhập vừa phải trong suốt cuộc đời mình nhưng không kiếm được lợi nhuận độc quyền từ sáng chế của mình. Vị giáo sư Gant-Britton nghiên cứu về MĨ phi tại đại hoc California, Los Angeles Lisbeth có nói: " vào những năm đó thì những người da màu không được cấp độc quyền sáng chế cho phát minh của họ".
Sáng chế kinh doanh này được nhượng lại cho Herman Lay. Công ty của Herman Lay là Frito-Lay sau này là công ty con của PepsiCo (PEP). PepsiCo (PEP) kiểm soát 59% về các sản phẩm snack trong thị trường Mĩ
Kẹo cao su
Kẹo cao su được bán lần đầu tiên ở Mĩ  vào năm 1896. Nó được đặt theo tên của người phát minh ra nó ở New York là Thomas Adams, ông đã gọi sản phẩm của mình là Adams New York No. 1.
Người Mĩ phải chờ đợi gần 60 năm cho đến khi người đàn ông 23 tuổi ở New Jersey tìm cách làm cho kẹo cao su ít dính và dễ thổi bong bóng hơn mặc dù anh ta không có kiến thức về hóa học.
Walter Diemer làm việc cho tập đoàn Fleer , ông là người làm bánh kẹo lành nghề nhưng lại làm việc như một nhân viên kế toán. Ông nhận biết được rằng công ty đang nỗ lực để tạo ra những chiếc kẹo cao su tốt. Và thật tình cờ văn phòng của ông lại gần với phòng thí nghiệm. Diemer đã thử một số công thức làm kẹo và cuối cùng đã xác định được thành phần còn thiếu đó là nhựa mủ. Ông thử trộn lẫn các thành phần với nhau và kết hợp với các gia vị như dầu lộc đề, dầu bạc hà, vani và quế.
Sản phẩm đó đã thành công và cuối cùng Diemer được đề bạt lên chức phó chủ tịch.  Ông đã đào tạo những người bán hàng của công ty thổi bong bóng trong suốt thời gian chào hàng. Mặc dù nhu cầu tăng vọt nhưng Diemer kiếm được rất ít từ công việc kinh doanh bán bánh kẹo hàng tỉ đô này.
Máy khoan dầu
Người ta nói rằng việc tìm kiếm dầu ở ngoài lòng đất thật là ngông cuồng nhưng điều đó không ngăn cản được quyết tâm của Edwin Drake - người phát minh ra máy khoan dầu
Vào năm 1858, một nhóm những nhà đầu từ một công ty có tên Seneca Oil đã gửi Drake tới thành phố Titusville, Pa với hi vọng là Drake có thể truy tìm dầu ở dưới lòng đất đang nổi trên bề mặt. Drake tiêu tốn của các nhà đầu tư 2,000 đô la trước khi các nhà đầu tư ngừng hợp tác với ông.
Nhưng Drake không trở nên giàu có nhờ sự thăm dò dầu. Drake không được cấp bằng sáng chế cho phát minh của mình và nhiều người khác đổ xô vào tái tạo sáng chế của ông.
Sau đó Seneca Oil trở thành công ty con của công ty Standard Oil do John D. Rockefeller''s sáng lập. Công ty Standard Oil nắm giữ độc quyền về công nghiệp dầu và sau bị tòa án tối cao chia nhỏ thành một vài công ty nhỏ là Exxon Mobil (XOM) và Chevron (CVX).
Karaoke
Trong nhiều năm, Daisuke Inoue người phát minh ra karaoke vẫn phải sống trong cảnh tối tăm, ngay cả khi phát minh của ông trở thành một sự chấn động toàn cầu. Cuôc sống đó đã thay đổi vào năm 1999 khi mà tạp chí Time giới thiệu với độc giả về ông. Daisuke Inoue là nhạc sĩ ở Kobe (Nhật), ông là người đầu tiên lắp ráp và bán dàn máy karaoke. Các cuốn sách và phim truyện cũng đã giới thiệu về Inoue nhưng ông vẫn chưa bao giờ trở nên giàu có nhờ phát minh của mình.
Inoue sáng chế ra karaoke vào năm 1967 trong khi là một tay chơi keyboard cho các khách hàng ca hát tại câu lạc bộ Kobe. Khi vị khách hàng của Inoue là một nhà thương nhân giàu có yêu cầu Inoue đệm nhạc cho ông ta ở một nơi nghỉ cuối tuần nhưng thay vào đó Inoue đã đưa cho ông ta một hộp chứa  máy quay đĩa 8 phần và một micro. Từ đó máy karaoke được ra đời và một số hộp đêm chưa từng có một dàn máy như vậy.
Vệ tinh truyền thông
Arthur C. Clarke là một nhà tiểu thuyết khoa học nổi tiếng viết cuốn "2001: A Space Odyssey." Vào năm 1945, Clarke lại xuất bản cuốn Extra-Terrestrial Relays: Can Rocket Stations Give World-wide Radio Coverage?". Đó là bài tiểu luận miêu tả hệ thống quỹ đạo địa tĩnh học để tiếp âm tín hiệu radio quanh hành tinh.
Hơn một thập niên sau đó, người Nga đã phóng vệ tinh quay theo quỹ đạo trái đất đầu tiên có tên Sputnik 1. Vào năm 1965, công ty Hughes Aircraft - sau này là công ty con của Boeing (BA), đã đặt vệ tinh truyền thông thương mại vào quỹ đạo
Clarke mất năm 2008, vào thời gian đó thì thu nhập toàn cầu của nền công nghiệp vệ tinh lên đến tổng số 144 tỷ đô la.
World Wide Web (mạng lưới toàn cầu)
Nhà khoa học máy tính kiêm kĩ sư phần mềm người Anh là Tim Berners-Lee đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Internet. Cần khẳng định rằng khi ông sáng tạo ra World Wide Web vào năm 1989, thì đơn giản là ông chỉ đặt những khái niệm đã có vào với nhau.
Phát minh tầm cỡ của Berners-Lee là một hệ thống cho phép những người dùng máy tính dùng chung một ngôn ngữ để giao tiếp qua mạng. Ông cũng phác thảo và xây dựng những trang Web đầu tiên.
Tầm nhìn rộng lớn đã giúp Berners-Lee phát minh ra World Wide Web, mà sau này nó trở thành siêu xa lộ thông tin. Tuy nhiên, ông không làm bất cứ điều gì để mang lại lợi nhuận cho chính mình.



SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo Vnr500)

Ý tưởng kinh doanh trị giá hàng trăm triệu đô

Nhiều doanh nhân khởi nghiệp từ ý tưởng vô cùng đơn giản nhưng lại biết cách biến chúng thành công cụ mang lại lợi nhuận lên đến hàng trăm triệu USD.

Dưới đây là 10 ý tưởng tiêu biểu của các doanh nhân Mỹ.

1. Sara Blakely và Spanx

Doanh thu năm 2008: 350 triệu USD
Sara và các sản phẩm của mình, Spanx.
Một buổi tối, Sara nghĩ ra cách cắt bỏ phần chân chiếc quần tất của mình, và thế là ý tưởng về Spanx ra đời. Với 5.000 USD tiền tiết kiệm, cô đã nghiên cứu và phác thảo ra ý tưởng về những chiếc quần tất không chân, rồi lái xe đến Bắc Carolina, năn nỉ các chủ xưởng làm cho mình. Hầu hết mọi người đều nói rằng cô sẽ chẳng bán được chiếc nào cả, nhưng rồi cũng có một người đồng ý giúp cô hiện thực hóa ý tưởng “điên rồ” này.
Công việc kinh doanh thật sự rất thuận lợi, năm 2000, Sara đã bán được hơn 50.000 chiếc quần chỉ trong vòng 3 tháng. Sau đó, cô cho ra đời thương hiệu Spanx và mở rộng ra các mặt hàng đồ lót, đồ tắm và thời trang cho người năng động.

2. Brian Scudamore và 1-800-GOT-JUNK

Doanh thu năm 2008: hơn 100 triệu USD
Ảnh
Brian Scudamore và 1-800-GOT-JUNK
Năm 1989, khi đang xếp hàng trước cửa hiệu McDonald’s, Brian nhìn thấy một chiếc xe bán tải chạy ngang qua. Và thế là anh đã nảy ra ý tưởng mua một chiếc xe bán tải cũ với giá 700 USD và lập ra The Rubbish Boys. Anh bắt đầu thu gom rác thải trong các giờ nghỉ giải lao ở trường Đại học Bristish Columbia.
Năm 1993, Brian nghỉ học để tập trung cho công ty. Năm 1998, anh đổi tên công ty thành 1-800-GOT-JUNK. Một năm sau đó, công ty nhượng quyền đầu tiên của anh xuất hiện ở Canada. Năm 2008, công ty đạt doanh thu hơn 100 triệu USD.

3. Jennifer Telfer và Pillow Pets

Doanh thu năm 2010: 300 triệu USD
Ảnh
Một nhân vật của Jennifer Telfer

Ý tưởng về gối thú bông đến với Jennifer khi cô trông thấy cậu con trai của mình dùng thú nhồi bông thay cho gối ngủ. Vì thế, cô đã làm ra những con thú nhồi bông có thể tháo ra để làm gối. Năm 2003, Jennifer và chồng đã lập ra công ty CJ Products chuyên sản xuất loại thú bông đặc biệt này. Công việc kinh doanh hết sức thuận lợi, sản phẩm của cô thường xuyên cháy hàng và đến năm 2010, doanh thu của CJ Products đã là 300 triệu USD.

4. Bert Jacobs - John Jacobs và Life is good

Doanh thu năm 2010: 100 triệu USD
Ảnh
Nhãn hiệu Life is good của Bert Jacobs - John Jacobs
Bert và John Jacobs đã thiết kế chiếc T-shirt đầu tiên của mình vào năm 1989 và bán chúng trên các đường phố của Boston và tại các trường cao đẳng dọc theo bờ biển Đông. Chỉ trong vòng năm năm, họ đã thành công rực rỡ.
Sau đó, vào năm 1994, họ nảy ra ý tưởng sử dụng thiết kế của một nhân vật phim hoạt hình tên Jake với câu khẩu hiệu "Cuộc sống tốt đẹp". Mọi người rất thích thú với các câu khẩu hiệu đơn giản mà lạc quan in trên những chiếc áo này, và do vậy áo của họ bán rất chạy trên đường phố và nhanh chóng được các nhà bán lẻ để ý đến. Hiện Bert và John đã nhanh chóng mở rộng sản phẩm của mình sang cả khăn tắm, cốc cà phê và cả dây cổ cho chó nữa.

5. Jim Koch và Boston Beer Company

Doanh thu quý I/2011: 102,2 triệu USD
Ảnh
Jim Koch và nhãn hiệu bia
Kinh doanh bia đã ngấm vào trong máu của Jim Koch vì cha ông là thế hệ sản xuất thứ năm trong gia đình. Ông đã thành lập công công ty bia Samuel Adams Boston Beer Lager và hiện nay, đây là công ty làm bia thủ công lớn nhất với hơn 30 phong cách khác nhau. Họ vẫn sử dụng tất cả phương pháp sản xuất truyền thống với các thành phần tự nhiên mà Koch đã phải đi khắp thế giới để tận tay lựa chọn. Công ty cũng đã giành được nhiều giải thưởng trong cuộc thi nếm bia trên thế giới.

6. Steve Ells và Chipotle

Doanh thu quý I năm 2011: 509,4 triệu USD
Ảnh
Steve Ells và sản phẩm của mình
Đang làm đầu bếp tại San Francisco, Steve Ells quyết định mở nhà hàng riêng của mình. Anh tìm thấy cảm hứng tại một hàng bánh taco mà mình thường xuyên lui tới trong thành phố và quyết định mở một cửa hàng bán đồ ăn nhanh thật khác biệt.
Ells muốn có một nơi mà khách hàng có thể ăn thức ăn được làm từ các thành phần tốt nhất, một cách nhanh chóng với chi phí thấp. Sau khi vay tiền của cha mẹ, anh mở cửa hàng Chipotle đầu tiên của mình tại Denver vào năm 1993 và hiện chuỗi cửa hàng của anh đã lên đến con số hơn 1.000.

7. Adam Lowry - Eric Ryan và Method

Doanh thu năm 2010: 100 triệu USD
Ảnh
Hãng sản phẩm lau rửa Method
Ý tưởng cho dịch vụ dọn dẹp nhà cửa thân thiện với môi trường đến với Adam Lowry và Eric Ryan khi họ thấy sau mỗi buổi tiệc, những sản phẩm để vệ sinh nhà cửa luôn khiến họ bị ho. Họ tự hỏi liệu các sản phẩm đang sử dụng có bẩn hơn đống lộn xộn mà họ đang cố gắng dọn dẹp hay không.
Vào thời điểm đó, có rất ít các sản phẩm làm vệ sinh là không chứa hóa chất mạnh. Vì vậy, Lowry và Ryan đã cùng nhau nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm thân thiện với môi trường vào năm 2000. Mười năm sau, sản phẩm của họ có mặt trên hầu hết các kệ hàng trên toàn quốc và công ty có tổng doanh thu năm 2010 là 100 triệu USD.

8. Roxanne Quimby - Burt Shavitz và Burt’s Bees

Doanh thu năm 2007: 250 triệu USD
Ảnh
Một số sản phẩm sáp ong
Burt Shavitz và Roxanne Quimby gặp nhau vào năm 1984. Họ đã cùng nhau hợp tác để làm ra nến từ sáp ong, rồi sau đó đem bán tại hội chợ thủ công và mở rộng nhanh chóng ra các cửa hàng trong thành phố.
Nhưng bước ngoặt thực sự là khi Quimby tìm thấy một cuốn sách cổ từ thế kỷ thứ 19 có ghi lại công thức tự làm ra các sản phẩm chăm sóc cá nhân. Thế là họ bắt tay ngay vào việc nấu xà phòng và nước hoa tự nhiên trên bếp gas. Nhưng sản phẩm bán chạy nhất của họ lại là son dưỡng môi - được tung ra vào năm 1991. Burt’s Bees hiện sở hữu hơn 100 sản phẩm chăm sóc da và tóc.

9. Jim McCann và 1-800-FLOWERS.COM

Doanh thu năm 2010: 668 triệu USD
Ảnh
Jim McCann và 1-800-FLOWERS.COM

Năm 1976, Jim McCann đã bỏ công việc là một bartender và nhà hoạt động xã hội để mua một cửa hàng hoa với giá 10.000 USD. Ông đã mở tổng cộng 13 cửa hàng cung cấp hoa trong khu vực New York, nhưng công việc kinh doanh chỉ thực sự bùng nổ khi ông quyết định mua lại cái tên 1-800-FLOWERS từ một người khác vào năm 1986.
Jim McCann là người đầu tiên đưa số điện thoại vào trong tên của công ty và cũng nắm bắt cơ hội kinh doanh trực tuyến rất nhanh khi cho ra đời website 1-800-Flowers.com vào năm 1991. Năm 1999, 1-800-FLOWERS tổ chức IPO và công ty cũng đã mở rộng kinh doanh bằng cách mua lại các công ty như The Popcorn Factory và Fannie May.

10. Gary and Diane Heavin và Curves

Doanh thu năm 2010: 1 tỷ USD
Ảnh
Gary and Diane Heavin và Curves
Gary và Diane Heavin mở phòng tập Curves đầu tiên vào năm 1992 để nhắm vào các phụ nữ không đến được các phòng tập thể dục truyền thống. Ý tưởng của họ là tạo ra một nơi làm cho phụ nữ cảm thấy thật thoải mái. Họ tập trung vào những phụ nữ bận rộn có quỹ thời gian hạn hẹp với các lớp tập thể dục 30 phút.
Câu lạc bộ thể dục của họ trở nên nổi tiếng một cách nhanh chóng và việc kinh doanh được mở rộng với tốc độ chóng mặt. Curves bắt đầu nhượng quyền vài năm sau đó và hiện họ đã có gần 10.000 phòng tập trên khắp thế giới. Doanh thu của toàn bộ các phòng tập đó là 1 tỷ USD trong năm 2010.



SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo Vnexpress/CNBC)

Trùm tài chính George Soros sắp 'về hưu'

Tỷ phú George Soros đang lên kế hoạch dần trả lại 1 tỷ USD của các nhà đầu tư bên ngoài và chỉ tập trung quản lý vốn của chính mình cũng như gia đình.



Theo đạo luật Dodd-Frank, các quỹ đầu tư hoạt động tại Mỹ buộc phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán,
cung cấp thông tin chi tiết và chính xác về phương thức thu lời của các hạng mục đầu tư. Nhưng đối với các quỹ đầu tư gia đình, luật mới này sẽ nhẹ tay hơn.
Đây là lý do khiến Soros phải tái cơ cấu quỹ Soros Fund Management, từng làm nên tên tuổi của ông với những thương vụ mang lại lợi nhuận hàng tỷ đôla. Sau khi trả lại 1 tỷ USD cho các nhà đầu tư, Soros Fund Management sẽ chỉ tập trung quản lý vốn cho Soros và chính gia đình.
Soros sẽ kết thúc sự nghiệp làm giám đốc quỹ đầu tư suốt 40 năm qua của mình. Tổng danh mục đầu tư ông đang quản lý hiện có giá trị 25 tỷ USD. Keith Anderson, người đã giữ chức giám đốc đầu tư của quỹ Soros kể từ năm 2008, cũng sẽ rời khỏi công ty.
Kể từ khi thành lập quỹ Quantum Fund gần 40 năm trước, Soros – người Mỹ gốc Hungary – đã làm nên những kỷ lục đáng khâm phục trong nghành công nghiệp tài chính, với lợi nhuận 20% mỗi năm. Nhưng gần đây, những biến động trên thị trường đã khiến quỹ này thiệt hại 6% chỉ trong nửa đầu năm 2011, còn trong năm ngoái lợi nhuận chỉ là 2,5%.
Kể từ khi Soros tái cơ cấu quỹ Quantum năm 2000 sau thời gian thua lỗ trầm trọng, công ty này đã hoạt động hiệu quả với tư cách là một quỹ đầu tư gia đình, với những khoản miễn thuế.
Nhưng giờ đây, những ưu đãi đó đã không còn, điều khôn ngoan là trả lại tiền cho các nhà đầu tư bên ngoài, thay vì trải qua quá trình đăng ký tốn kém và tốn thời gian, những người đã quen với lối suy nghĩ của Soros nhận định.
“Theo luật mới, chúng ta sẽ không thể quản lý tài sản cho bất kỳ ai khác nữa ngoài những khách hàng gia đình”, hai con trai của Soros, Jonathan và Robert Soros cho biết.
Sự chú trọng đặc biệt vào các hoạt động từ thiện cũng có thể là một trong những lý do cho quyết định của Soros. Năm ngoái, trong một bài phỏng vấn, Soros cho biết: “Đến nay, tôi đã cho đi một nửa tài sản của mình một cách hiệu quả và nửa còn lại tôi sẽ cho đi khi tôi chết”.


SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo Vnexpress)

5 nguyên tắc đặt tên cho doanh nghiệp

Một cái tên phù hợp với đặc thù hoạt động của doanh nghiệp và có vẻ sắc sảo tất nhiên có sức thu hút đối với khách hàng. Nếu đã lỡ chọn cái tên rất mờ nhạt, tối nghĩa và thiếu khả năng khơi nguồn cảm hứng cho khách hàng thì doanh nghiệp vẫn có thể đổi tên như một số doanh nghiệp từng làm điều này thành công, chẳng hạn Xerox từng có tên là The Halloid Company, tên ban đầu của Nissan là Datsun... Theo các chuyên gia, doanh nghiệp có thể tuân theo những nguyên tắc dưới đây để tạo ra những cái tên ấn tượng.

1. Dễ nhớ
Những công ty lớn luôn có những cái tên có khả năng tạo ra “chất keo” trong tâm trí của người tiêu dùng. Trong quá trình tìm tòi sáng tạo để đặt tên cho doanh nghiệp, nên để ra một khoảng thời gian dài, ít nhất là một tuần, kể từ khi bắt đầu hội ý đến khi ra quyết định để cân nhắc kỹ các lựa chọn.
Ngay cả khi doanh nghiệp cảm thấy đã chọn ra được vài ba cái tên tốt thì vẫn nên tiếp tục hội ý. Tên tốt nhất là tên có thể được bật ra ngay trong đầu của mọi người mà không cần phải xem lại danh sách tên đã được chọn.

2. Ngắn gọn nhưng súc tích
Những cái tên như Nike, Apple, Facebook, Twitter, DreamWorks, Pixar và eBay có những đặc điểm gì chung? Trước hết, đó đều là những công ty thành công. Nhưng còn một điểm chung khác là tên gọi của những công ty này chỉ có hai âm tiết.
Nghiên cứu cho thấy những gì ngắn gọn thì luôn tạo ra khả năng nhớ lâu. Do đó, doanh nghiệp nên chọn những cái tên ngắn, mạnh mẽ, dễ nhớ.

3. Phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp
Nên cân nhắc đến hoạt động, sản phẩm hay dịch vụ đặc thù mà doanh nghiệp đang cung cấp khi đặt tên. Trường hợp của Marc Andreessen, đồng sáng lập của Netscape (công ty có tên gọi ban đầu là Mosaic), từng làm việc trong một dự án phát triển phần mềm mã nguồn mở là một ví dụ.
Trong cuốn sách Marc Andreessen: Web Warrior (Marc Andreessen: Người chinh phục web), tác giả Daniel Ehrenhaft kể lại rằng Andreessen rất hài lòng với tên gọi Mosaic, nhưng phần mềm này vẫn chưa thể chạy nhanh và an toàn như mong đợi
của anh.
Do đó, Andreessen đã quyết định viết lại chương trình và tạo ra phiên bản Godzilla thay thế cho các phần mềm internet trước đây của mình. Năm 2002, anh lại giới thiệu ra thị trường phiên bản Mosaic Godzilla, viết tắt thành Mozilla và đã làm thay đổi hoàn toàn thế giới internet.
Firefox - trình duyệt web hàng đầu của Mozilla hiện đang được xem là một trong những trình duyệt web được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới.

4. Gắn liền với một câu chuyện
Một số tên gọi công ty thường sáo rỗng và không tạo ra một nguồn cảm hứng nào cho khách hàng. Vào ngày lễ Tạ ơn năm 1904, Công ty Holt đã chụp những bức ảnh về chiếc máy kéo ủi đất chạy bằng động cơ hơi nước mới nhất của mình.
Trong tiểu sử của nhà sáng lập Công ty Benjamin Holt có đoạn kể rằng một nhiếp ảnh gia đã miêu tả “chiếc máy kéo này di chuyển như một con sâu bướm (carterpillar)”.
Khi nghe những lời nhận xét ví von như vậy, Holt đã bật ra tên gọi cho chiếc máy kéo ủi đất: “Caterpillar. Đó là tên cho chiếc máy kéo này!”. Đến năm 1910, Holt chính thức đăng ký nhãn hiệu Caterpillar cho công ty sản xuất thiết bị xây dựng của mình.

5. Sáng tạo ra một ngôn ngữ mới
Tạo ra một từ mới không phải là giải pháp cuối cùng, mà nên là lựa chọn đầu tiên khi doanh nghiệp xem xét đặt tên công ty. Hai nhà sáng lập của Google đã không đi tìm tên công ty của họ từ bất cứ một cuốn sách hay nguồn tài liệu nào vì trước đó những cái tên này chưa hề tồn tại.
Doanh nghiệp nên suy nghĩ một cách sáng tạo như kết hợp hai từ hoặc hai khái niệm lại với nhau hoặc cải biên một từ có sẵn để tạo ra một từ mới. Khách hàng sẽ luôn đánh giá cao những nhãn hiệu của những công ty độc lập, dám chấp nhận rủi ro để tạo ra sự khác biệt với đối thủ cạnh tranh


SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo DNSG)

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

5 bài học thú vị về khởi nghiệp

Nhiều người nghĩ rằng dấn thân vào thương trường đòi hỏi có hoài bão, đam mê, dám đương đầu với rủi ro. 


Nhưng vẫn có những người thành công mà cần điều đó.
1. Không cần đột phá
Trên thực tế, nhiều doanh nhân đã thành công khi chỉ cần thay đổi một đặc tính rất nhỏ của các sản phẩm, dịch vụ hay mô hình kinh doanh hiện tại. Cinemex là ví dụ điển hình, họ đã rất thành công trong việc đưa hệ thống rạp chiếu phim đa màn hình từ Mỹ về Mexico. Nhà đồng sáng lập ra công ty này cho biết: “Điểm khác biệt duy nhất là chúng tôi dùng nước chanh thay vì bơ để cho vào bỏng ngô”. Chỉ nhờ có vậy, họ đã thay đổi được văn hóa xem phim rạp ở đây, thống trị hoàn toàn thị trường và tạo ra khoản lợi nhuận 300 triệu USD.
2. Không cần rủi ro
Khởi nghiệp thường đi kèm với nguy cơ mất tiền hoặc thất bại. Tuy nhiên, kể cả khi bạn đã có một vị trí với mức lương ổn định, thì vẫn còn nhiều rủi ro khác, như bị sa thải, gặp phải sếp kém cỏi hay chế độ đãi ngộ thấp.
Và một khi đã có quyết định kinh doanh, thì các doanh nhân sẽ cố gắng giảm thiểu tối đa mức độ rủi ro, một phần bằng cách hình thành các mối quan hệ hợp tác để phân tán rủi ro, đồng thời biến các động thái rủi ro cao trở nên ít nguy cơ hơn để có thời gian học hỏi và thích nghi dần dần.
Mary Gadams, nhà sáng lập RacingThePlanet ở Hong Kong, đã rất thành công trong việc tổ chức các sự kiện thể thao và siêu marathon thương mại. Bà sử dụng các tình nguyện viên, giữ chi phí cố định ở mức thấp, đưa nhiều sự kiện vào cùng một lúc và buộc người tham gia phải trả trước hàng nghìn USD, và đó chính là nguồn dự trữ tiền mặt lớn để bà tổ chức các sự kiện này.
3. Không cần theo đuổi những cơ hội
Cơ hội không phải là thứ có thể theo đuổi được. Thế nhưng phần lớn chúng ta lại cho rằng cơ hội là những chùm quả chín mọng trên giàn đang chờ được hái xuống. Trên thực tế, cơ hội là yếu tố chủ quan, và nó chỉ nảy sinh khi doanh nhân tin tưởng rằng họ đang nắm giữ một khả năng, thông tin hoặc tài sản đặc biệt nào đó.
Công ty tư vấn luật Clutch Group được hình thành từ chính kĩ năng bán hàng xuất sắc của Abhi Shahi. Kĩ năng này có được từ việc bán kinh thánh suốt thời sinh viên của anh. Chính nó đã giúp anh thuyết phục được các lãnh đạo của một số ngành công nghiệp hàng đầu hợp tác và đầu tư vào công ty của mình. Kết quả là ClutchGroup luôn được đánh giá là nhà cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý hàng đầu trên thị trường.
4. Không cần đam mê
Trung thành, nhiệt tình, chăm chỉ, kiên trì, có khả năng tập hợp mọi người – đúng là có cần thiết, thế nhưng còn đam mê thì sao? Đó là một thứ cảm xúc bóp méo và làm mờ mắt con người. Trên thực tế, công việc khó khăn nhất đối với một doanh nhân mới khởi nghiệp là làm sao để vừa hành động dứt khoát khi thấy có bất ổn vừa phải luôn tự phê bình bản thân và tiếp nhận kiến thức mới.
Gabriel Meron – nhà sáng lập Given Imaging đã đưa nhà sản xuất viên nang nội soi của Israel lên sàn Nasdaq năm 2001. Kể từ khi rời khỏi công việc kinh doanh tốt đẹp vào năm 2006, Meron đã hoạt động trong một lĩnh vực mới dựa trên một bài thử nghiệm đơn giản giúp hỗ trợ chẩn đoán các bệnh về động mạch vành. Rõ ràng ông đã bị thuyết phục rằng đây sẽ là một thành công lớn đáng để đầu tư tiền của và thời gian, và rõ ràng là còn có các cơ sở khoa học đảm bảo cho sự thành công của cuộc thử nghiệm nữa. Nhưng Meron biết rằng sẽ có rất nhiều điều bất ngờ, ông đã tuân theo các quy tắc của FDA để chứng minh hiệu quả của thí nghiệm, và ông biết rằng việc thương mại hóa một loại thuốc là cả một quá trình dài.
Luôn giữ một cái đầu lạnh, sáng suốt, kiên trì và điêu luyện là tất cả những gì có thể nói về Meron và phương pháp của ông. Đam mê không hề nằm trong nhóm đó. Vì vậy, lời khuyên cho các doanh nhân chuẩn bị khởi nghiệp là hãy để lại đam mê của mình trong phòng ngủ, vén mành lên và để cho ánh nắng chói chang rọi sáng lên kế hoạch kinh doanh của bạn.
5. Kinh doanh không tốt cho sức khỏe
Mặc dù một cuộc bỏ phiếu gần đây cho thấy rằng 80% người dân Ba Lan nghĩ doanh nhân Ba Lan là những kẻ lừa đảo, thì trái lại, hình ảnh về các doanh nhân Mỹ lại là mẫu mực về trí tuệ, đạo đức và sức khỏe. Tuy nhiên, mặt tối của những vấn đề này chính là một phần không nhỏ các doanh nhân đang phải khổ sở với những niềm say mê thử thách, thành tựu và giải thưởng. Hậu quả là, họ càng ngày càng tìm đến những thử thách lớn hơn, và cứ thoát khỏi cái này là lại vướng vào một cái khác.
Bert Twaalfhoven, 45 tuổi và đã có tổng cộng 54 lần kinh doanh, phần lớn liên quan đến công nghiệp vũ trụ. Ông không hề nghèo, và tài sản thừa kế kếch xù của vợ chính là vốn cho ông kinh doanh lần đầu tiên, và do vậy, không phải ông làm những việc này vì tiền. Ông là một người đam mê kinh doanh. Nhưng nó nguy hiểm ở chỗ phần lớn người đam mê muốn lôi kéo nhiều người khác như mình nữa. Sau khi bán công ty cuối cùng của mình năm 2001, Bert tiếp quản Diễn đàn nghiên cứu khởi nghiệp châu Âu – một chương trình truyền bá sự đam mê kinh doanh trên khắp châu Âu thông qua giáo dục và cải cách chính trị.
Chúng ta càng tránh xa thứ gì đó, thì ta lại càng thấy nó đơn giản. Các nhà khởi nghiệp thực thụ biết rằng khởi nghiệp là một tập hợp các hoạt động và thái độ phức tạp thách thức tất cả những lời giải thích đơn giản. Do vậy, một quan điểm thực tế về khởi nghiệp thực sự là gì sẽ giúp tất cả chúng ta thành công trên lĩnh vực mà ta đã chọn. 


SÁCH DOANH TRÍ's Blog
Theo Vnexpress)

Liệu có tồn tại "gen kinh doanh" không?

Tạp chí BusinessWeek.com mới đây đã tiến hành cuộc điều tra, đồng thời tham khảo ý kiến các chuyên gia xem liệu các doanh nhân tài năng là do bẩm sinh hay nhờ rèn luyện mà thành. Có lẽ tất cả chúng ta đều mong tìm ra lời giải cho câu hỏi này. 


Trở thành một doanh nhân tài năng có phải chỉ đơn giản là vấn đề thuộc di truyền bẩm sinh? Hay ngọn lửa kinh doanh là một cái gì đó có thể được thắp sáng? Rõ ràng, các phẩm chất như dám đương đầu với rủi ro, sự quyết tâm,... - những đặc điểm chung của nhiều chủ doanh nghiệp - là một phần trong chuỗi ADN của họ. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể chuyển những đặc tính di truyền đó thành khái niệm kinh doanh, cũng như chuyển khái niệm kinh doanh thành hành động thực tế. Vậy thì có phải các cá tính cố hữu của nhiều doanh nhân tài năng - tự tin, nghị lực, sáng suốt - có thể được học hỏi và trau dồi? Chúng có thể được hình thành theo thời gian?
Với ngày càng nhiều cá nhân đang tránh phải leo đầy đủ từng bậc thang kinh doanh để khởi sự công ty của riêng họ tại bất cứ độ tuổi nào, một câu hỏi được đặt ra cho nhiều “cây đại thụ” trong giới kinh doanh là: Các chủ công ty được “sinh ra” hay được “tạo thành”?
Frank Moss - giám đốc Media Lab tại Viện công nghệ Massachusetts, cựu CEO của hãng Tivoli Systems và là thành viên sáng lập công ty Stellar Computer và Infinity Pharmaceuticals:
Tôi cho rằng gen kinh doanh tồn tại ở trong ADN di truyền của tất cả mọi người. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều sinh ra với những kỹ năng trở thành doanh nhân thành đạt, nhưng chúng ta phải quên đi hành vi “né tránh rủi ro” (risk-averse) vốn trở thành một phần trong văn hóa của nhân loại trong một thế giới phát triển từ hơn 500 năm qua. Do các công nghệ thông tin và truyền thông đã lật đổ những rào cản trên, chúng ta sẽ thấy một vòng quay trọn vẹn khi mà hàng tỷ người trên thế giới đang và sẽ thể hiện các gen kinh doanh của họ.
Mark Veeder - đồng sáng lập, kiêm giám đốc sáng tạo của hãng Event Quest, New York, giám đốc điều hành hãng River Market, Barryville:
Tôi cho rằng các doanh nhân tài năng là hoàn toàn được “sinh ra”. Mặc dù những chương trình “đào tạo doanh nhân” đang tạo ra một ngành nghề phát đạt trên toàn thế giới, song tôi nghĩ rằng những chương trình đó chỉ cố gắng hệ thống hoá những gen di truyền có sẵn trong các cá nhân mà thôi. Cảm giác của tôi cho biết các doanh nhân tài năng là một sự phối kết hợp hoàn hảo, một sự pha trộn của tính sáng tạo, năng lực, tự tin, cá tính, nghị lực, trực giác và sinh lực.
Họ có một chỉ số EQ (Chỉ số cảm xúc - Emotional quotient) cao, còn chỉ số IQ (Chỉ số thông minh – Intellegence quotient) của họ không quan trọng - nó là lối sống, nó cố hữu trong mỗi người như một bản năng, chứ không phải là điều gì đó có thể khơi dậy hay dập tắt. Đôi lúc nó là điều tốt lành, nhưng cũng không ít lần nó là tai họa. Trong khi nhiều cá nhân là những người mơ mộng, giấc mơ của một doanh nhân thực thụ được chuyển thành hiện thực bởi vì các doanh nhân này luôn sáng tạo, luôn suy nghĩ về các ý tưởng, đánh giá các khả năng và cảm thấy phấn khích với một cái gì đó mới mẻ.
Steve Hindy, đồng sáng lập viên hãng bia Brooklyn Brewery và đồng tác giả cuốn sách “Beer School: Bottling Success at the Brooklyn Brewery” (Xây dựng thành công tại nhà máy bia Brooklyn)
Tôi nghĩ rằng tất cả mọi người đều được sinh ra với những tia lửa kinh doanh ấp ủ, một định hướng để tạo ra cái gì đó - sản phẩm hay dịch vụ - để rồi họ thu về lợi ích, trang trải cuộc sống và tận hưởng niềm vui. Một vài người trong chúng ta đã thổi bùng tia lửa đó thành ngọn lửa rực sáng và thành lập nên một công ty kinh doanh. Sẽ là một sự thoả mãn cao độ khi sở hữu trong tay một công ty và cùng với thời gian điều này đang trở thành một phần của thế giới xung quanh bạn. Bằng việc ca tụng những phẩm chất doanh nhân cố hữu, bằng việc phân tích lại những kinh nghiệm doanh nhân và bằng việc nghiên cứu những chiến thắng của họ, các trường đào tạo kinh doanh hoàn toàn có thể nuôi dưỡng ngày một nhiều hơn các doanh nhân tài năng.
Trish Karter, chủ tịch kiêm sáng lập viên hãng bánh ngọt Dancing Deer Bakery tại Boston, Mỹ:
Tôi không thể trả lời được câu hỏi “bẩm sinh hay nuôi dưỡng” này trong thế giới doanh nhân. Nếu kiến thức và trực giác của một cá nhân không khiến anh ta/cô ta cảm thấy thoải mái khi đương đầu với rủi ro, vững chí trong những hoàn cảnh khó khăn thách thức, lạc quan về tương lai,... họ có thể không được tính vào danh sách các doanh nhân thành công.
Tôi không nghĩ rằng một doanh nhân nhất thiết phải là người suy nghĩ sáng tạo, nhưng những doanh nhân thành công thường có các bộ não linh hoạt và nhạy bén, thấy rõ nhiều sự khác biệt trên thế giới này - đây có lẽ chính là nơi mà gen kinh doanh trong mỗi cá nhân được phát huy.
Neal Thornberry - giám đốc bộ phận đào tạo kinh doanh Babson Executive Education tại trường đại học Babson College và là tác giả cuốn sách “Lead Like an Entrepreneur” (Lãnh đạo như một doanh nhân)
Câu trả lời thực tế là vừa có vừa không.
Chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể đào tạo cho mọi người những kỹ năng kinh doanh cùng các suy nghĩ của một doanh nhân đích thực, nhưng việc đào tạo này cần đến những động cơ tiềm tàng trong bản thân họ và bao gồm khả năng tự nhận thức. Chúng tôi có thể đào tạo cho mọi người nhận ra những cơ hội kinh doanh mới và chúng tôi có thể dạy họ làm thế nào để phân biệt một ý tưởng tốt và một cơ hội tốt.
Trên thực tế, phần lớn những gì chúng tôi làm tại Babson là dạy cho sinh viên suy nghĩ và hành động như những doanh nhân thực thụ. Vì vậy, chúng tôi dạy cho sinh viên cách thức huy động vốn kinh doanh cho những ý tưởng của họ, cách thức đánh giá nhu cầu của thị trường, cách thức đánh giá hoạt động kinh doanh, giảm thiểu rủi ro,.... Nhưng một niềm đam mê mà các doanh nhân phải có để biến ý tưởng và giấc mơ kinh doanh của họ thành hiện thực, đồng thời xây dựng thành công một công ty vững chắc là không thể dạy được. Và niềm đam mê chúng ta đang nói ở đây chính là gen di truyền.
Họ cần có tình yêu với công việc kinh doanh đầy vất vả hay học để yêu nó nếu trong tâm trí họ vẫn phảng phất đâu đó một sự kháng cự, bảo thủ. Tôi đã từng đào tạo rất nhiều người vốn không có bất cứ định hướng kinh doanh nào, nhưng rồi họ đã thay đổi hẳn khi được học hỏi về công việc kinh doanh tại nhà trường, cùng với thời gian họ trở thành các doanh nhân thành công.
Một yếu tố khác không dễ đào tạo và trau dồi chính là niềm tin rằng khả năng của mình có thể biến ý tưởng, biến giấc mơ thành hiện thực. Chúng ta thường thấy mọi người với những cơ hội trong tay, nhưng họ không đủ tự tin để đón nhận và tận dụng nó. Giáo dục sẽ phát huy hiệu quả vào lúc này, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là làm sao để xung quanh những doanh nhân tương lai này là những người có thể chia sẻ niềm cảm xúc của họ về các giấc mơ và ý tưởng.
Nói chung, lần đầu tiên tiếp xúc với một doanh nhân tài năng mà từ lâu bạn ngưỡng mộ thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi bạn cảm thấy bất ngờ trước vẻ bề ngoài của họ. Những doanh nhân thành công có hình dáng cơ thể trông cũng rất giống như mọi người khác thôi. Chỉ có điều trong đủ mọi ngành nghề, các môi trường kinh doanh và những lĩnh vực đòi hỏi sự nỗ lực cao, họ đều có mặt. Và bạn sẽ tìm thấy nhiều gen di truyền đặc biệt ở những con người ấy, họ luôn tìm kiếm những mục tiêu lớn lao để làm, để nếm trải và để đạt đến. Song, trở thành một doanh nhân thành công là một con đường lâu dài. Và không phải ai cũng có được thành công. Trên con đường đó, bên cạnh yếu tố gen di truyền, tất cả đều đấu tranh kiên cường và không ngừng học hỏi để có được kết quả như mong đợi.



SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo Businessweek/Bwportal)

Thủa ban đầu của các công ty nổi tiếng

Bất kỳ cửa hàng nào của A&F cũng được trang trí bằng người mẫu thật, rực rỡ với ánh đèn mờ ảo và tiếng nhạc vô cùng lớn (nhạc ở đây được vặn to đến 90 decibel). Nhà bán lẻ quần áo cho thanh thiếu niên Mỹ này nổi tiếng với những hoạt động marketing đầy tranh cãi (người mẫu teen bán nuy) và những câu slogan trên áo rất hớ hênh (“tất cả người dân Tây Virginia đều là họ hàng của nhau” – ám chỉ sự loạn luân). 

Bạn có biết Nokia từng sản xuất ủng cao su hay Gucci? Từ Nokia, Sony, IBM cho đến Gucci, Ferrrari đều trải qua giai đoạn đầu gian khó trước khi trở thành những tên tuổi được nhiều người ngưỡng mộ.

1. Nokia
Nhắc đến Nokia, chắc hẳn ai cũng nghĩ đến điện thoại di động, thế nhưng, bạn hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi biết Nokia ban đầu chỉ là một công ty sản xuất bột giấy ở miền bắc Phần Lan. Sau đó, năm 1898, Nokia lại chuyển sang ngành công nghiệp cao su, và thậm chí làm cả ủng cao su nữa. Mãi cho đến tận năm 1968, họ mới gia nhập thị trường di động.
2. Abercrombie & Fitch
Bất kỳ cửa hàng nào của A&F cũng được trang trí bằng người mẫu thật, rực rỡ với ánh đèn mờ ảo và tiếng nhạc vô cùng lớn (nhạc ở đây được vặn to đến 90 decibel). Nhà bán lẻ quần áo cho thanh thiếu niên Mỹ này nổi tiếng với những hoạt động marketing đầy tranh cãi (người mẫu teen bán nuy) và những câu slogan trên áo rất hớ hênh (“tất cả người dân Tây Virginia đều là họ hàng của nhau” – ám chỉ sự loạn luân). 

Một cửa hàng của A&F với 2 người mẫu thật
Tuy nhiên, khi mới thành lập năm 1892, A&F khác xa so với bây giờ. Khách hàng mà họ nhắm đến là những người thợ săn, người đi câu và người thích các hoạt động mạo hiểm. Và do vậy, các gian hàng của họ cũng chỉ toàn lều, cần câu và dụng cụ đi săn thay vì các bộ quần áo thời thượng như hiện nay.
3. Nintendo
Công ty đa quốc gia này có trụ sở tại Nhật Bản, và cũng như Nokia hay Abercrombie & Fitch, Nintendo ban đầu không phải là một công ty trò chơi. Trước khi đến với Wii và Super Mario Bros., Nintendo sản xuất các bộ bài. Nintendo Koppai thành lập năm 1889 và sản xuất bài từ vỏ cây dâu tằm và từng có thời điểm, họ thống trị cả thị trường. Nintendo cũng từng thất bại trong hàng loạt các lĩnh vực như taxi, đồ ăn và khách sạn trước khi thành công với việc sản xuất trò chơi vào những năm 1980.
4. Gucci
Ngày nay, Gucci có lẽ rất nổi tiếng về các sản phẩm túi xách cao cấp, tuy nhiên năm 1921, nó chỉ là một cửa hàng gia đình bán yên ngựa ở Florence, Italia. Họ chỉ tập trung vào các đồ da cho những người cưỡi ngựa như: Yên, ủng, găng tay và túi yên.
5. Hasbro
Năm 1926, ba anh em Henry, Hilal và Herman Hassenfeld bắt đầu làm vỏ cho các hộp đựng bút chì và sản phẩm này rất được ưa chuộng vào thời kì ấy. Sau đó, họ đã thành lập công ty Hassenfeld Brothers. Trong cuộc Đại suy thoái, họ đạt doanh thu hàng năm là 500.000 USD cho việc bán hộp bút chì và túi vải có khóa chứa các dụng cụ học tập. Năm 1935, họ bắt đầu làm cả bút chì và mãi đến cuối những năm 1930 mới sản xuất đồ chơi – lúc đó cũng chỉ là một nhánh mở rộng của bộ phận làm dụng cụ học tập. Hai loại đồ chơi được ra mắt đầu tiên là sáp nặn và bộ dụng cụ bác sĩ.
6. Ferrari

Người sáng lập Ferrari từng là tay đua ôtô chuyên nghiệp.
Vào năm lên 10, Enzo Ferrari đã có niềm đam mê đua xe. Và ở tuổi 20, ông đã trở thành người lái xe thử nghiệm cho một công ty sản xuất xe nhỏ. Không lâu sau đó, ông trở thành tay đua ôtô chuyên nghiệp. Vào năm 1929, ông thành lập đội đua Scuderia Ferrari. Nhưng mãi cho đến tận cuối những năm 1945, Enzo mới bắt đầu thiết kế chiếc xe thể thao Ferrari đầu tiên.



SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo VnExpress)

Tỷ phú Amancio Ortega: Từ “tay trắng” đến “chinh phục cả thế giới”

Từ một xưởng may tại ở xứ Galicia hẻo lánh, “con người bí ẩn” Amancio Ortega đã chinh phục cả thế giới bằng đế chế bán lẻ Inditex.

Từ một xưởng may tại ở xứ Galicia hẻo lánh, “con người bí ẩn” Amancio Ortega đã chinh phục cả thế giới bằng đế chế bán lẻ Inditex.


Theo bình chọn của tạp chí Forbes, Amancio Ortega hiện là người giàu nhất Tây Ban Nha và đứng thứ 7 thế giới về tổng tài sản, ước tính vào khoảng 22 tỷ euro (31 tỷ USD).

Xuất thân là con trai của một nhân viên đường sắt, rời trường học từ năm 13 tuổi và đến làm việc tại một cửa hàng bán quần áo tại thành phố La Coruna, chỉ 4 năm sau, ông đã bắt đầu công việc kinh doanh của mình. Đến năm 1975, ông mở cửa hàng đầu tiên mang tên Zara tại thành phố La Coruna. Sau đó, ông mở rộng công việc kinh doanh sang Bồ Đào Nha vào năm 1988, Mỹ vào năm 1989 và Pháp năm 1990.

Thương hiệu Zara "át chủ bài"

Tuy nhiên, giới truyền thông Tây Ban Nha vẫn rất khó khăn để có được bất kỳ câu chuyện nào về nhà tỷ phú này và ông không bao giờ nhận trả lời phỏng vấn. Trong nhiều năm, không ai biết “chân dung” của ông và người ta chỉ được biết con người tài hoa này khi ông đồng ý cung cấp một bức ảnh chính thức vào thời điểm Inditex niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán năm 2001.

Trả lời Covadonga O'Shea, nhà báo duy nhất được tiếp xúc với Ortega, để viết tiểu sử về nhà tỷ phú này cho biết: “Trên đường phố, tôi chỉ muốn những người thân trong gia đình, bạn bè và cộng sự nhận ra tôi mà thôi”.

Hiện tập đoàn Inditex của Amancio Ortega đang là nhà bán lẻ thời trang lớn nhất thế giới, với các thương hiệu nổi tiếng như Zara, Bershka hay Massimo Dutti. Trong năm 2010, tập đoàn này đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu với mức lợi nhuận tăng 30% đạt 1,7 tỷ euro. Quý I/2011, lợi nhuận ròng của Inditex đạt 332 triệu euro, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến nay, Inditex đã có hơn 5.000 cửa hàng tại 78 quốc gia và hơn 100.000 nhân viên.
Một trong 5.000 cửa hàng ở 78 quốc gia của Inditex trên thế giới

Đẹp, rẻ và hợp mốt được coi là ba yếu tố tạo nên sự thành công kỳ diệu của Zara cũng như nhiều thương hiệu khác của Inditex. Mô hình kinh doanh của Inditex là một mô hình khép kín từ khảo sát, thiết kế, sản xuất cho đến bán lẻ trực tiếp. Mô hình này đã góp phần đáng kể giúp Ortega loại bỏ các chi phí trung gian khác và giảm giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, trên 50% sản phẩm của Inditex được sản xuất tại châu Âu và Marocco, trong khi gần như tất cả các nhà sản xuất hàng dệt may nổi tiếng châu Âu đều chuyển sang sản xuất tại châu Á hoặc ít nhất là châu Mỹ Latinh. Tuy nhiên, Ortega chỉ duy trì các xưởng sản xuất ở những vùng tương đối kém phát triển, để có được chi phí sản xuất thấp.

Ngoài ra, Ortega quyết định việc thiết kế được thực hiện tại ngay “đại bản doanh” của tập đoàn ở vùng Galicia. Tại đây, Inditex có cả một trung tâm thiết kế mẫu với 600 nhà thiết kế. Mỗi ngày có tới hàng trăm mẫu mã mới được ra đời. Mỗi tuần, 40% hàng hóa tại hệ thống các cửa hàng của Inditex lại được thay mới. Vì vậy, đa dạng, phong phú và thường xuyên thay đổi mẫu mã quần áo đã trở thành lợi thế cạnh tranh lớn nhất của Inditex. Đa số khách hàng đều có cảm giác mất mát, thiếu hụt gì đó nếu như mỗi tuần không ghé qua các cửa hàng thời trang Zara một đến hai lần. Đây được coi là giá trị thương hiệu vô cùng to lớn mà Amancio Ortega gây dựng nên.

Nhà báo O'Shea cho biết mô hình kinh doanh của tỷ phú Ortega có tính chất sáng tạo đến nỗi nhiều nhà  nghiên cứu tại Đại học Havard và một số đối thủ cạnh tranh đã “sao chép” mô hình này.


SÁCH DOANH TRÍ's Blog
Theo Tầm nhìn

Thành công đến từ đam mê

Giữa tháng 7, nhân một cuộc thi của những tay pha chế rượu xuất sắc toàn cầu ở Ấn Độ, ông Rudy Paoli, Tổng giám đốc toàn cầu, ngành hàng Diageo Reserve, đã chia sẻ với Doanh Nhân những thông tin thú vị về cuộc sống và công việc của mình.
Ông Rudi Paoli, Giám đốc toàn cầu ngành hàng Diageo Reserve: “Tôi có nhiều đam mê và thành công nhờ đam mê”
Giản dị và chân thành, vị Tổng giám đốc toàn cầu ngành hàng Diageo Reserve, ông Rudy Paoli, vẫn có thời gian nói về những đam mê, những trải nghiệm cuộc sống vừa riêng tư, vừa là điển hình cho những mẫu hình “sếp” lớn của các công ty toàn cầu.
- Thưa ông, là một sếp lớn của một tập đoàn nổi tiếng, ông thường thức dậy lúc mấy giờ? Và mấy giờ ông đi ngủ?
Tôi thường dậy vào 6:30 và ngủ lúc 10:30 tối. Cũng có khi sẽ ngủ muộn hơn khi có những việc cần làm.
- Nếu có 3 thứ mà ông luôn luôn mang theo bên người thì đó là những thứ nào?
Laptop, điện thoại BlackBerry và đồ sạc pin! Không có những thứ này tôi như bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới.
- Trung bình ông làm việc một tuần bao nhiêu giờ?
Ồ, rất khó nói. Tôi có thể làm việc khi ở nhà, khi đi du lịch. Thời gian của tôi rất linh hoạt, tùy hoàn cảnh. Với công nghệ ngày càng tiện ích, tôi có thể làm việc mọi lúc, mọi nơi.
- Khi ở chỗ làm, việc đầu tiên mà ông làm trong ngày là gì?
45 phút đầu tiên trong ngày tôi dành thời gian để suy nghĩ. Suy nghĩ về mọi thứ tôi sẽ làm, những điều quan trọng phải giải quyết.
- Ông có nhớ công việc đầu tiên của ông là gì? Và khi đó mức lương của ông là bao nhiêu?
À, đó là khi tôi mới ra trường. Lúc đó tôi 24 tuổi và làm cho một chương trình truyền hình ở Lebanon. Trước đó tôi đã làm việc không lương 6 tháng. Lương khởi sự của tôi là 175 USD/tháng.
- Còn khi nào thì ông trở thành Managing Director toàn cầu (ngành hàng Reserve) của tập đoàn Diageo?
Năm tôi 36 tuổi. Ồ, bây giờ tôi đã 39 rồi. Nhanh quá nhỉ!
- Nếu có 50 từ (hoặc có thể ít hơn) để nói về bí quyết thành công của ông thì đó là điều gì?
Tôi có nhiều đam mê và thành công nhờ đam mê. Ngay từ nhỏ tôi thích được khám phá và chỉ làm những điều tôi thích. Tôi mê vẽ tranh, thích đi đây đó… Tôi say mê với những việc tôi làm và tôi dành nhiều thời gian cho nó. Tôi đọc sách, nghiên cứu để tìm ra lời giải cho vấn đề. Tôi cũng tận hưởng cuộc sống và thích thú với công việc mình làm. Tôi nghĩ rằng bí quyết thành công chính là sự đam mê. Một khi đam mê bạn sẽ có nhiều cảm hứng để làm việc và cố gắng hết sức để đạt được thành công.
- Sở thích của ông là gì?
Hồi nhỏ tôi thích vẽ tranh, đi du lịch, bây giờ là chụp hình. Tôi thích khám phá, chụp ảnh những gương mặt khác nhau của cuộc sống.
- Quyển sách mà ông thích nhất là quyển nào?
L’ Alchimiste, của tác giả Paolo Coelho. Cuốn sách nói về Santiago, một người chăn cừu trẻđi tìm kho báu chôn dưới chân kim tự tháp. Nơi sa mạc, Santiago được khai tâm bởi một nhà luyện kim, anh ta học cách lắng nghe con tim, nhận biết những dấu hiệu của số phận và trên tất cả là bắt đầu thực hiện giấc mơ của mình. Đó là cuốn truyện ngắn mang màu sắc triết học. Bạn nên đọc nó, rất thú vị.
- Điều gì làm cho ông cảm thấy hạnh phúc?
Tôi thấy mình hạnh phúc vì làm việc với mọi người, mang lại cảm hứng cho nhiều người, cùng chia sẻ niềm vui với nhau, giống như thông điệp mà thương hiệu chúng tôi đang gửi tới cho khách hàng.
- Vậy có điều gì hoặc thói quen gì ở người khác mà ông không thích?
Nói dối. Tôi không thích người nào đó không chân thành. Họ nói dối một lần, sẽ có lần thứ 2, 3, 4… và những người như vậy sẽ không bao giờ làm tôi tin tưởng được.
- Xin cảm ơn ông!


SÁCH DOANH TRÍ's Blog
Theo Diễn đàn doanh nhân

Giải tỏa nỗi sợ…sếp

Vì sếp là người có quyền lực và tác động rất lớn tới sự nghiệp cũng như cuộc sống công sở của cấp dưới nên nhiều nhân viên sẽ lo lắng, thậm chí sợ sệt khi đứng trước sếp. Để giải tỏa nỗi sợ này, bạn có thể áp dụng một số lời khuyên sau:

Sự thoải mái trong mối quan hệ bắt nguồn từ những điều thân thuộc.
Chủ động nói chuyện với sếp
  "Thay vì thụ động chờ đợi sếp nói chuyện và cho biết bạn phải làm những gì, hãy chủ động hỏi sếp mình nên sắp xếp thứ tự ưu tiên công việc ra sao. Bạn nên đặt ra những câu hỏi và yêu cầu cụ thể để đảm bảo mình hiểu đúng ý sếp", Lynne Eisaguirre, một chuyên gia về công sở và tác giả cuốn sách Những cuộc nói chuyện căng thẳng với sếp, đưa ra lời khuyên.
Luyện tập
Bạn có thể luyện tập cách phản ứng trước những tình huống và câu hỏi của sếp khiến bạn lo lắng. Một khi đã quen, bạn sẽ thấy tự nhiên và thoải mái hơn khi nói chuyện với sếp. Tất nhiên là bạn không thể biết trước tất cả tình huống cụ thể khiến mình phải toát mồ hôi khi đứng trước sếp nhưng luyện tập giúp bạn cảm thấy tự tin hơn.
Không nói xấu sếp
Nói xấu sếp không chỉ là hành động kém chuyên nghiệp mà còn khiến bạn càng thêm sợ sếp. Tốt nhất, bạn không nên nói xấu sau lưng sếp dưới bất cứ hình thức nào, kể cả trên blog hay trang mạng xã hội riêng.
Tìm hiểu về sếp
Sự thoải mái trong mối quan hệ bắt nguồn từ những điều thân thuộc. Do đó, bạn nên dành chút thời gian ngoài công sở để làm thân với sếp. Bạn có thể đi ăn trưa cùng sếp hay rủ sếp đi uống cà phê. Những khoảng thời gian thân mật như vậy giúp bạn hiểu rõ hơn về con người sếp, về giá trị hay nỗi lo lắng cũng như cuộc sống riêng của sếp. Hãy dũng cảm đến chỗ sếp và bắt đầu một cuộc nói chuyện cởi mở với anh/cô ấy.
Coi sếp là người cố vấn
Sếp có thể cung cấp những thông tin quan trọng cũng như những lời khuyên hữu ích cho sự phát triển nghề nghiệp của bạn. Điều quan trọng là bạn phải biết cách khai thác. Bạn có thể mạnh dạn tới chỗ sếp và thảo luận với anh/cô ấy về những vấn đề trong sự nghiệp của mình. Những người giàu kinh nghiệm và quyền lực như sếp rất thích được chia sẻ lời khuyên cũng như đóng vai trò cố vấn cho người khác.
Hoàn thành xuất sắc công việc của mình
Lời khuyên đơn giản nhất nhưng hiệu quả nhất để trị "chứng" sợ sếp: trở thành một nhân viên xuất sắc. Hãy làm việc chăm chỉ và hoàn thành tốt phần việc của mình. Bạn sẽ có sự tự tin và không run sợ trước bất cứ tình huống nào, kể cả với sếp. Nhưng lưu ý rằng đừng biến sự tự tin thành tự kiêu, nếu không bạn sẽ đánh mất niềm tin của sếp cũng như những người khác.







SÁCH DOANH TRÍ's Blog
Nguồn DÂN TRÍ

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Đại gia...bít tất

Một chiếc bít tất chỉ là một chiếc bít tất, điều này có đúng không? Bạn đừng bao giờ đặt câu hỏi đó với Jim Throneburg, người đàn ông 68 tuổi, có biệt danh “Sấm Sét” này đã sản xuất ra những chiếc tất thể thao nổi tiếng thế giới.
Những đôi tất của Throneburg, còn gọi là Thorlos, được sản xuất bằng loại sợi vải độc quyền và được dệt theo cách thức đặc biệt để có thể hấp thu lực dồn của bàn chân lên cẳng chân khi vận động viên chạy trên bề mặt cứng hay trượt trên tuyết. Các khách hàng sẵn sàng bỏ ra 11 đôla để mua một đôi bít tất Thorlos trong khi giá của các nhãn hiệu tất khác chỉ vào khoảng 3,5 đôla.

Throneburg dành nhiều triệu đôla để nghiên cứu công nghệ sản xuất những đôi tất đó, ông sở hữu tất cả 50 nhãn hiệu và 20 bằng sáng chế. Những nhãn hiệu và bằng sáng chế này sẽ ngăn chặn các công ty cạnh tranh làm nhái dù chỉ là màu sắc của sợi vải trên cổ tất, họa tiết, hay cách đóng gói… Throneburg đã tự đổi mới mình và chiến thắng trong cuộc chơi quật ngã rất nhiều công ty dệt kim khác.
Throneburg đã xây dựng một công ty với 360 nhân viên, doanh số 40 triệu đôla từ một loại sản phẩm mà không một ai có thể liên hệ với từ cách tân như thế nào? Có lẽ từ này sẽ làm bạn nhớ đến những cái tên như Edison, Ford, Gutenberg và Gates nhiều hơn. Tuy vậy, phần lớn những ý tưởng cách tân trên thế giới này lại xảy ra khi ai đó nhìn một sản phẩm hay dịch vụ có sẵn theo một cách hoàn toàn khác. Ray Kroc không phải là người phát minh ra bánh hamburger, nhưng là người thai nghén một hệ thống cực kỳ cách tân và nhờ đó một trong những thành công vĩ đại bậc nhất trong hoạt động kinh doanh của thế kỷ XX đã ra đời. Tương tự, Charles Schwab biến đổi cả ngành công nghiệp môi giới, và Howard Shultz của tập đoàn Starbucks thay đổi cả cách mà chúng ta cảm nhận về một tách cà phê, chứ chưa nói gì đến số tiền ta sẵn sàng trả cho nó.
THOR-LO khởi sự là nhà máy dệt kim Thorneburg, một “cơ sở dệt thô” được Lewis và Mattie Thorneburg, bố mẹ của Jim thành lập năm 1951. Mattie là thợ dệt còn Lewis là thợ máy. Họ đã tiết kiệm trong rất nhiều năm mới đủ sức gây dựng cơ sở dệt của riêng mình. Nhà máy dệt kim Thorneburg sản xuất các loại tất chưa hoàn thiện, sau đó gửi chúng tới một nhà máy khác để hoàn thành nốt, rồi mới đưa ra thị trường. Họ xây khu nhà xưởng kiên cố nối liền với ngôi nhà khiêm tốn của mình và được bạn bè đồng nghiệp ở Bắc Carolina giúp đỡ thành lập và điều hành công ty. Theo lời Jim, đó là một cách để “thoát khỏi thế giới tập đoàn”. Ông cũng đã đổi họ Thorneburg ban đầu của mình thành Throneburg sau khi người ta phát hiện ra cách phát âm gốc của từ này trong một cuộc điều tra về dòng họ.
Nhà máy của bố mẹ Jim lúc đó chỉ là một nhà thầu phụ sản xuất tất thô cho một công ty ở Philadelphia khi công ty này ký được hợp đồng béo bở sản xuất hàng dệt kim với chính quyền. Giữa thập niên 1950, khi hợp đồng này kết thúc, công ty nhảy sang lĩnh vực sản xuất tất ngắn đang là trào lưu lúc bấy giờ. Nhưng chỉ năm năm sau, khi trào lưu này đuối dần, họ lại quay trở lại cộng tác với chính quyền. Lần này, họ sản xuất loại bít tất cao cổ cho quân đội có đệm ở lòng bàn chân. Sản phẩm này đã được họ cải tiến và hoàn thành suốt 10 năm sau đó và đem lại cho họ những bài học quý giá về tầm quan trọng của việc sử dụng các miếng đệm khi làm tất.
Jim là con trai duy nhất của họ. Khi mới 13 tuổi, Jim bắt đầu vận hành máy dệt, và nếu không kể hai năm đi nghĩa vụ quân sự trong lực lượng hải quân, có thể nói Jim đã dành gần hết cuộc đời mình trong nhà máy dệt. Không lâu sau khi Jim giải ngũ, bố mẹ ông đã tiến hành sáp nhập nhà máy vốn hoạt động dưới hình thức sở hữu tư nhân của mình. Jim trở thành đối tác có cổ phần trong doanh nghiệp mới này. Trước đó, 70% hoạt động sản xuất hàng dệt kim đều diễn ra trong vòng 50 dặm của thành phố Statesville, một thành phố nhỏ nằm dưới các chân đồi ở Bắc Carolina, với hàng trăm công ty nhỏ cạnh tranh lẫn nhau và lợi nhuận ít ỏi. Tuy nhiên, Lewis Thorneburg đã luôn đặt chất lượng chứ không phải giá cả lên hàng đầu, ông không ngừng nỗ lực cho ra đời những sản phẩm có chất lượng tốt nhất. Nhờ vậy, ông không những thu hút được những khách hàng hết sức trung thành mà còn truyền được tâm huyết đó sang con trai mình.
Giữa những năm 1960, Jim đã trưởng thành vượt bậc và nóng lòng ghi tên mình vào ngành kinh doanh bít tất. “Từ rất sớm, tôi đã nhận ra là để thoát khỏi cuộc đua nhàm chán trong ngành sản xuất hàng dân dụng, tôi cần có một nhãn hiệu cực tốt mà người mua sẽ hỏi đích danh nó khi bước vào các cửa hàng”, ông kể lại. Jim có ý tưởng sản xuất bít tất dành riêng cho các tay chơi golf và quyết định thực hiện nó cùng đối tác là một tay golf bán chuyên nghiệp tên là Lowell Lyles. Bít tất sẽ được sản xuất tại Nhà máy dệt kim Thorneburg nhưng sẽ do một công ty mới được Throneburg và Lyles thành lập với sự góp cổ phần của mẹ Throneburg. Họ đặt tên công ty là THOR-LO, ghép từ tên Thorneburg và Lowell.
Giống như các sản phẩm khác của Thorlos, bít tất dành cho những người chơi golf được thiết kế với sự chú ý đặc biệt vào chức năng của nó. Phần nào trên bàn chân của các tay golf cần đệm nhiều hơn? Một đôi giày đánh golf vừa khít sẽ ảnh hưởng như thế nào đến thiết kế của những đôi tất? Sản phẩm của công ty đã đạt được những dấu hiệu khả quan nhất định trên thị trường, nhưng chỉ thật sự gặt hái được thành công vang dội khi hai người sáng lập gặp tay golf chuyên nghiệp Cynthia Sullivan, khách hàng thường xuyên của một câu lạc bộ đồng quê ở Nam Carolina. Cô đề nghị họ làm cho mình một đôi tất dày như những đôi tất nam với cổ chân ngắn không che mắt cá nhưng cũng không trượt vào bên trong giày khi hoạt động nhiều. Vậy là Throneburg quay về Statesville và bắt đầu làm việc trên những chiếc máy dệt.
Một năm sau đó, năm 1966, ông xin cấp bằng sáng chế cho một loại tất nữ dày và có viền ở cổ. “Chúng tôi đem sản phẩm đến Izod. Họ bày bán chúng với 18 đến 20 màu, và cả thế giới đổ xô đi mua”, Throneburg vui vẻ kể lại. Izod, về sau được Phollips-Van Heusen mua lại năm 1995, lúc đó chỉ là một công ty tư nhân nhỏ. Nhờ việc hợp tác với tay vợt tennis René Lacoste khi cho ra đời thương hiệu áo phông Lacoste mà ngày nay vẫn rất nổi tiếng, công ty này đã tạo được dấu ấn thương hiệu nhất định trên thị trường. Throneburg hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này. Nhà máy của ông sản xuất bít tất theo hợp đồng cho Izod, lúc đầu số lượng chỉ dừng lại khoảng 84.000 đôi bít tất cao cổ và mức lợi nhuận 2 xu/đôi, nhưng sau này đơn đặt hàng đã tăng thêm 60.000 đôi với lợi nhuận 41 xu một đôi. Doanh thu liên tục tăng gấp đôi trong ba năm liền. Sullivan cuối cùng đã trở thành Chủ tịch của Hiệp hội đánh golf chuyên nghiệp dành cho phái nữ.
Mối quan hệ hợp tác của Throneburg và Lyles kết thúc năm 1967, nhưng đến lúc đó, Throneburg đã tìm được con đường đi cho riêng mình. Trong khoảng thời gian những đôi tất cổ viền ra đời từ 1966 đến đầu những năm 1970, khi Throneburg mua lại cổ phần của cha mẹ mình, doanh thu của nhà máy tăng từ 2 triệu đôla lên 6 triệu đôla, mang về 1 triệu đôla lợi nhuận với sản lượng là hơn 4.000.000 đôi tất. Năm 1976, Throneburg thậm chí đã đưa khái niệm tất thể thao vào chuỗi các cửa hàng quần áo đồ tây ở Knoxxville, Kentucky khi ông thuyết phục thành công các chủ cửa hàng tin rằng ông có thể thiết kế một loại tất với phần gót chân dày hơn bình thường để các đôi giày kiểu Tây không bị trượt. Ông cho biết: “Tôi tin rằng chỉ với một công ty, chúng tôi đã tăng doanh số bán hàng lên hàng triệu đôla”.
Tuy nhiên, cuối những năm 1970, bằng sáng chế độc quyền những đôi tất viền cổ của Throneburg hết hạn; sản phẩm nhái của các đối thủ cạnh tranh trong nước bắt đầu tràn ngập thị trường. Các khách hàng lớn của ông như Izod, Bonnie Doon và Woolworth Corp., gây sức ép buộc Throneburg phải hạ thấp giá thành. Thronebugr phải đối mặt với viễn cảnh là lợi nhuận thu về sẽ chỉ ở mức 20% thay vì 50% như trước. Nhưng ông từ chối. Thay vào đó, một lần nữa, ông lại đầu tư tất cả số trứng vào giỏ “cách tân”.
Ngày nay, những đôi tất thể thao chuyên dụng đã trở thành một ngành công nghiệp có giá trị 250 triệu đôla - tăng lên rất nhiều so với con số 50 triệu đôla 5 năm trước đó. Đây quả là một thành tích phi thường trong ngành công nghiệp liên tục xuống dốc trong suốt 15 năm qua. Sally Kay, Giám đốc Hiệp hội Dệt kim ở Charlotte, Bắc Carolina, ước tính hiện nay chỉ còn khoảng 240 doanh nghiệp dệt kim nội địa so với con số 345 của năm 1990. “Rất nhiều nỗ lực củng cố thị trường bít tất đã được thực hiện nhưng các quốc gia khác lại có lợi thế hơn về cả sản xuất cũng như nguồn nguyên liệu thô.” Theo các con số thống kê, trong hai năm 2002 và 2003, số lượng bít tất nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 373%, làm giảm giá thành chung và khiến các doanh nghiệp nội địa nao núng, đặc biệt là những công ty vẫn tiếp tục “cuộc chơi hàng gia dụng” như cách nói của Throneburg.
Throneburg cho biết, ở các doanh nghiệp dệt kim truyền thống, “mọi người cùng ngồi họp bàn và họ thảo luận xung quanh bốn câu hỏi sau: Chúng ta đã xuất đi bao nhiêu đôi tất trong ngày? Chúng ta có thể làm gì để các chuỗi cửa hàng lớn nhất nước hài lòng bởi vì họ là những nhà phân phối tất lớn nhất? Làm thế nào để hạ giá thành sản phẩm? Kiểu dáng thời trang mới nhất là gì? Và đến tận bây giờ, họ vẫn nguyên mãi những chiến thuật ấy. Điều này giải thích tại sao họ phải đến tận Trung Quốc hay Mexico chỉ để sản xuất bít tất”.
Throneburg có những tiêu chí hành động khác hẳn. Ông muốn tất cả các đôi tất của mình đều được thiết kế theo hướng chức năng chứ không phải hướng thời trang; ông khăng khăng yêu cầu những chất liệu thô tốt nhất; ông đặt khách hàng chứ không phải những nhà phân phối lên hàng đầu; và với ông, lợi nhuận quan trọng hơn là số lượng. “Doanh thu rất quan trọng”, ông nói, “nhưng lợi nhuận còn quan trọng hơn.” Theo Dan St. Louis, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Dệt kim, lợi nhuận từ ngành công nghiệp sản xuất bít tất biến đổi rất da dạng - “từ 2% đến 25%”. Ông này đoán rằng lợi nhuận của THOR-LO nằm ở đầu cao hơn trên cán cân này. Throneburg chỉ cho biết lợi nhuận của ông “gấp đôi tiêu chuẩn trung bình”. Đó quả thực là một vị trí đáng ghen tỵ và Throneburg quyết định sẽ không bao giờ để mất nó vào việc thuê gia công sản phẩm ở nước ngoài.
Throneburg cho rằng làm như vậy mình sẽ không thể theo dõi sát sao chất lượng của các loại nguyên liệu thô, kết cấu và cả phương pháp sản xuất, do đó, không thể đảm bảo sản phẩm sẽ tương xứng với giá cả mà ông đề ra - những mức giá đó luôn rất cao.
Trích cuốn sách "Những kẻ dẫn đầu" do Alpha Books phát hành



 SÁCH DOANH TRÍ's Blog
(Theo VnExpress)